Tự vệ như thế nào là hợp pháp

tu-ve

Trong cuộc sống chúng ta sẽ gặp không ít trường hợp phải tự vệ trước hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe của người khác. Vậy khi gặp phải những trường hợp như thế, chúng ta phải tự vệ như thế nào thì mới được coi là đúng luật?

Như thế nào là tự vệ?

Tự vệ hay phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc ích lợi của Nhà nước, của cơ quan, đơn vị mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi hành vi xâm phạm những lợi ích kể trên. Vấn đề này được định nghĩa được quy định trong Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cũng theo quy định tại Điều 22 trên, phòng vệ chính đáng không được coi là tội phạm và người phòng vệ chính đáng sẽ ko phải chịu nghĩa vụ hình sự bởi hành vi tự vệ của mình.

Ngoài ra, chẳng có hành vi chống trả nào cũng được coi là phòng vệ chính đáng và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Những trường hợp được coi là tự vệ đúng luật Trên thực tế, không thể lúc nào cũng có thể thể kiểm soát được hành vi chống trả của mình. Do vậy, dễ dẫn đến hậu quả đáng nuối tiếc và kết cuộc là phải chịu trách nhiệm hình sự.

tu-ve

Theo quy định tại Điều 23, 24, 25, 26 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, các trường hợp được coi là phòng vệ chính đáng và không phải chịu phận sự hình sự bao gồm:

– Vì muốn hạn chế gây thiệt hại cho quyền, ích lợi hợp pháp của mình, của người khác hoặc ích lợi của Nhà nước, của cơ quan, doanh nghiệp mà không còn cách thức nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn đề phòng

– Để bắt giữ người thực hành hành vi phạm tội mà ko còn cách nào khác là bắt buộc dùng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ

– Trong khi thực hành việc nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và kỹ thuật mới mặc dầu đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, ứng dụng đủ các biện pháp phòng đề phòng nhưng vẫn gây ra thiệt hại ko thể tránh khỏi.

– Trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện phần nhiều quy trình Báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn đề nghị chấp hành mệnh lệnh đấy mà gây ra thiệt hại.

Bên cạnh đó, những trường hợp gây thiệt hại vượt quá mức cấp thiết thì người gây ra thiệt hại vẫn phải chịu nghĩa vụ hình sự về hành vi của mình.

GỬI YÊU CẦU TƯ VẤN

BẤM ĐỂ GỬI YÊU CẦU