Thông tin Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV) tới đây sẽ thu phí tác quyền đối với các tác phẩm âm nhạc tại tụ điểm ca nhạc, bao gồm cả tụ điểm kinh doanh dịch vụ karaoke đang trở thành đề tài nóng. Với mức phí 2.000 đồng/bài hát/đầu máy karaoke trong thời hạn 1 năm, tức là trung bình mỗi đầu máy sẽ phải trả khoảng 20 triệu đồng/năm… đang gây ra nhiều luồng ý kiến khác nhau.
Cần có sự thống nhất để thu phí tác quyền trong kinh doanh karaoke cho hợp lý. (Ảnh minh họa). |
Nội dung bài viết
Nhạc sĩ Phó Đức Phương (Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam):Không có sự chồng lấn thu phí tác quyền
Căn cứ quy định pháp luật và Điều lệ hoạt động, khi Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam thực hiện cấp phép sử dụng các tác phẩm âm nhạc thuộc thành viên của mình cho tổ chức, cá nhân bắt buộc phải thông qua hợp đồng sử dụng quyền tác giả âm nhạc. Còn đối với quyền liên quan của các bản ghi âm, ghi hình thì việc xác định tương đối phức tạp và phải có chuyên môn để xác định cụ thể bản ghi của nhà sản xuất nào. Vì một tác phẩm âm nhạc có thể có nhiều bản ghi, hòa âm phối khí khác nhau của nhiều nhà sản xuất khác nhau và có thuộc thành viên của RIAV hay không… cho nên việc thu phí tác quyền đối với bản ghi sẽ rất khó nếu RIAV không được tất cả các nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình ủy quyền, đặc biệt là lĩnh vực karaoke.
Luật sư Hoàng Ngọc (Văn phòng Luật sư Nhiệt Tâm và Cộng sự):Cần giám sát chặt chẽ
Theo quy định tại Điều 33 Luật Sở hữu trí tuệ, các tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng. Như vậy, nếu RIAV được ủy thác thu tác quyền từ chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng thì RIAV có cơ sở để thu phí tác quyền đối với tác phẩm được sử dụng trong chương trình karaoke. Tuy nhiên, đĩa chương trình karaoke là một trường hợp khá đặc biệt khi chứa tới hàng nghìn bài hát phối âm, phối khí bao gồm cả bài hát nước ngoài, bài hát được chủ phát hành đĩa thu riêng (có thể đã trả tiền tác quyền tác giả, chủ sở hữu hay các hiệp hội khác). Nghĩa là trong một đĩa như vậy có nhiều chủ thể khác liên quan đến quyền tác giả có thể được thu phí.
Hiện nay, tại Việt Nam, các hiệp hội, trung tâm lưu giữ và khai thác tác quyền được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Họ được tự chủ về tài chính và quyền tự chủ trong việc thiết lập giao dịch dân sự, ký các hợp đồng dân sự liên quan đến thu phí bản quyền. Tuy nhiên, việc thu phí hiện nay đang khiến đối tượng phải trả phí tác quyền cảm thấy có nhiều khoản phí “chồng chéo”. Tính “độc quyền” của các hiệp hội và trung tâm cao khiến mức phí gần như được áp đặt thiếu cơ sở tính toán mang tính kỹ thuật và khoản phí đó được trả cho các tác giả, chủ sở hữu tác phẩm gần như được “cào bằng”, không minh bạch. Do vậy, rất cần Nhà nước giám sát chặt chẽ việc thu phí này để bảo đảm tính hiệu quả và minh bạch.
Tin cùng chuyên mục:
Thuận tình ly hôn và những điều cần biết
Tọa đàm ‘Nâng cao hiệu quả phòng cháy, chữa cháy tại các công trình xây dựng: Gỡ vướng từ hệ thống pháp luật’
Thủ tục cần có để xoá án tích
Vấn nạn chiếm dụng bình ga của doanh nghiệp khác để kinh doanh, sản xuất